Chính trị

Tin tức

Học tập và làm theo gương Bác

Đoàn kết trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Trước lúc đi xa, “về với thế giới người hiền”, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất đã để lại cho Đảng và Nhân dân ta bản Di chúc lịch sử – “Quốc bảo” của Dân tộc Việt Nam(1). Với những lời căn dặn thiết tha, thấm đẫm tư tưởng, đạo đức, phong cách của bậc vĩ nhân suốt đời phấn đấu, hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại, Di chúc thiêng liêng của Người đã trở thành nguồn động viên, cổ vũ hết sức to lớn, soi sáng con đường cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế và vững bước trên con đường đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ảnh tư liệu
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ảnh tư liệu
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc từ tháng 5/1965 - khi bước sang tuổi 75, vào tuổi “xưa nay hiếm”, đúng vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt, song đang trên đà thắng lợi. Và không chỉ một lần, mà trong những năm tiếp theo sau đó, Người nhiều lần trăn trở, suy ngẫm, để bổ sung, hoàn thiện bản Di chúc - Tài liệu tuyệt đối bí mật, theo như cách gọi của Người. 
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản công bố năm 1969 đề cập đến sáu vấn đề lớn(2), trong đó đoàn kết là nội dung có tính chất xuyên suốt, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần (08 lần), từ lời dặn dò đầu tiên cho đến lời mong muốn cuối cùng của Người. Trong lời dặn đầu tiên “Trước hết, nói về Đảng”, Người khẳng định đoàn kết có tầm quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng, là nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và những thắng lợi của cách mạng Việt Nam có được là do sự đoàn kết trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Người nhấn mạnh: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”; Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo Người, để thực sự đoàn kết, thống nhất cần phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau. Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. 
Lời cuối của Di chúc, Người thể hiện mong muốn tột cùng, mục đích sống và mục tiêu phấn đấu suốt cuộc đời mình: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Như vậy có thể thấy, đoàn kết nói chung và đoàn kết trong Đảng nói riêng không chỉ là mối quan tâm hàng đầu mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về cả mai sau. Xuyên suốt và nhấn mạnh nhiều lần trong Di chúc của Người, đó là nhân tố đạo đức của Đảng khi trở thành đảng cầm quyền; bởi vì, Đảng cầm quyền là bước chuyển trọng đại trong sinh hoạt Đảng, Đảng cầm quyền có sứ mạng lãnh đạo giai cấp và dân tộc xây dựng thành công xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, và để hoàn thành sứ mạng đó, Đảng ta phải thực sự “là đạo đức, là văn minh”, mỗi một cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự là công bộc của Nhân dân. Đạo đức cách mạng, theo Người, trước hết là: “Phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân…”, thể hiện bằng những phẩm chất cụ thể: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và có tinh thần quốc tế trong sáng.
Có thể thấy, vấn đề đoàn kết luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến nhiều lần, trong nhiều thời điểm, ở nhiều nơi, với sự khẳng định mạnh mẽ; trong Lời kêu gọi ở Lễ mừng Quốc khánh ngày 02-9-1955, Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi. Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc tới Nam đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”(3). Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cải cách miền biển, Người nói: “Một chiếc thuyền phải có người chèo, phải có người lái... người chèo và người lái phải đoàn kết với nhau”(4)… Trong nhiều lời dạy và tác phẩm của Người, bằng các cấp độ khẳng định, từ đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đến đoàn kết toàn dân và mở rộng phạm vi đoàn kết quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát truyền thống của Dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước; đồng thời tổng kết thực tiễn đấu tranh của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hai câu nói nổi tiếng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”(5)
Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, 50 năm qua, trong mọi hoàn cảnh, lúc cách mạng phát triển thuận lợi, hay lúc khó khăn, thách thức trước những bước ngoặt của lịch sử, Đảng ta đã luôn coi trọng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất, lấy đó làm cơ sở xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Điều này thể hiện rõ nét tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986), kế thừa tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa I (tháng 11-1939), trong phần nói về Đảng: “Phải thống nhất ý chí và hành động” và “sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng buộc phải có ý chí giác ngộ của toàn thể đảng viên, chớ không phải nhắm mắt phục tùng”(6), Đảng ta đã bổ sung và rút ra bốn bài học kinh nghiệm quý, trong đó có bài học về “Tăng cường sự đoàn kết nhất trí, sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V, khóa VI đều khẳng định: “Đảng coi việc giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị và nguyên tắc tập trung dân chủ là sinh mệnh của Đảng, và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái trong Đảng”(7). Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6-1996), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng. Cán bộ, đảng viên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình yêu thương đồng chí”(8). Tổng kết thực tiễn 80 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh bài học kinh nghiệm: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”(9). Ngược lại, nếu những người nắm trọng trách lãnh đạo, nhất là ở cấp cao, nếu không có ý thức “Phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” thì không những gây nguy hại, mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho Đảng nói riêng, cho đất nước và cả dân tộc nói chung.
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hiện nay, trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Đảng ta càng đặc biệt chăm lo đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, tập trung củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, như đánh giá của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã chỉ ra, khi mà “Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu” và “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty…”. Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân;  “Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm”,“Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm”, dẫn đến vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ, sa vào dân chủ hình thức, đoàn kết xuôi chiều, trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng tự phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng... 
Ngày nay, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế với những thời cơ, vận hội to lớn, với nhiều tình huống diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đòi hỏi Đảng ta càng phải có quyết tâm chính trị cao, giữ vững khối đoàn kết, thống nhất chặt chẽ để vượt qua mọi khó khăn, thử thách; nhất là trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng khó khăn, khuyết điểm để bôi nhọ, nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ ta hòng kích động, chia rẽ mối đoàn kết trong Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém nói trên, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phải tăng cường chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng; mà trực tiếp, thường xuyên là tập trung đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh như vậy, hơn lúc nào hết, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng càng phải được thể hiện rõ, cần phải khắc sâu lời dạy về bài học đoàn kết trong Di chúc của Người, để quy tụ, thúc đẩy, tạo thành nguồn sức mạnh to lớn trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 
Để làm được điều đó, chúng ta cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số giải pháp sau đây:
Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn bộ hệ thống chính trị, để các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở thống nhất cao về ý chí, hành động của toàn Đảng để củng cố, phát triển và không ngừng mở rộng sự đồng thuận xã hội trong các tầng lớp Nhân dân thi đua, phấn đấu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự điều chỉnh và tu dưỡng, rèn luyện cho phù hợp với yêu cầu chung, gắn mình với tập thể, luôn phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Mọi nhận thức và hành động trái với nguyên lý Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và những luận điểm cơ hội, xuyên tạc, gây mất đoàn kết nội bộ cần phải được uốn nắn, chấn chỉnh và loại trừ.
Từ thực tế công tác xây dựng Đảng trong những năm qua cho thấy, đoàn kết, thống nhất cao trong Đảng sẽ tạo động lực thúc đẩy, sức lan tỏa kéo theo sự đoàn kết, đồng thuận xã hội với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân; ngược lại, nếu cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, những người nắm trọng trách trong xã hội nếu không có ý thức “Phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” thì không những gây nguy hại, mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho Đảng nói riêng, cho đất nước và cả dân tộc nói chung. 
Hai là, từng tổ chức đảng, đảng viên phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, tăng cường mở rộng dân chủ trong Đảng, đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thực tế hiện nay cho thấy, bên cạnh những thành tựu về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì vẫn còn có không ít nhận thức và biểu hiện sai lệch về đoàn kết; đó là đoàn kết theo kiểu hình thức, xuôi chiều, nể nang, “dĩ hòa vi quý”, không dám đấu tranh với cái xấu, cái sai... Cần nhận thức rằng, sự đoàn kết, nhất trí thực sự trong Đảng phải được xây dựng trên cơ sở đấu tranh để đi đến thống nhất về tư tưởng, hành động. Muốn thế, phải mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng và dân chủ trong xã hội để mọi người bày tỏ hết ý kiến của mình, nói lên được những tâm tư, nguyện vọng chính đáng với những đề xuất, kiến nghị thiết thực để giúp cấp ủy, chính quyền các cấp thực hiện tốt vai trò, năng lực lãnh đạo, quản lý xã hội. Dân chủ rộng rãi nhưng không tách rời tập trung như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ, thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức kỷ luật”(10). Theo đó, dân chủ phải dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, quan điểm của Đảng, quy chế, quy định, nghị quyết của tổ chức đảng các cấp; mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, mọi chủ trương, biện pháp lãnh đạo phải dựa trên trí tuệ của tập thể, không áp đặt ý kiến cá nhân. Khi đã có kết luận, mọi người, trước hết là cán bộ, đảng viên phải tuân thủ và thực hiện nghiêm túc theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Đối với những vấn đề phức tạp nảy sinh, cần có sự trao đổi, bàn bạc, tôn trọng ý kiến cấp dưới, tránh sự độc đoán, gia trưởng; phát huy trí tuệ tập thể phải đi đôi với đề cao vai trò, trách nhiệm, ý chí của cá nhân người đứng đầu, có sự phân công, phân cấp cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành. Chỉ có như vậy, mới quy tụ được sức mạnh tập thể, giải tỏa được mọi vướng mắc và mới đi đến hành động thống nhất. Cùng với đó, các cấp ủy phải rà soát, hoàn chỉnh hệ thống các quy chế, quy định, nhất là các mặt công tác trọng yếu, dễ phát sinh tiêu cực, mất đoàn kết; đổi mới phương pháp, tác phong công tác, làm việc theo chức trách, nhiệm vụ, không bao biện, làm thay, cá nhân, cục bộ...
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là việc làm thường xuyên nhưng thực hiện có nhiều khó khăn nhất. Bởi vì nó đòi hỏi mỗi người phải tự giác phân tích, mổ xẻ ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; đồng thời phải nhận xét, đánh giá về đồng chí, đồng nghiệp của mình. Nếu không tự giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác, trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của người khác nhiều hơn mình. Nếu không hết lòng vì sự nghiệp chung, không có dũng khí, không thật sự cầu thị thì không dám nói hết khuyết điểm của mình và không dám phê bình người khác, nhất là phê bình cấp trên. Thái độ nể nang, hữu khuynh, “im lặng là vàng”, hoặc thái độ cực đoan, muốn lợi dụng phê bình để đả kích người khác, gây rối nội bộ, đều là không đúng. 
Tự phê bình và phê bình đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần tự giác rất cao, có tình yêu thương đồng chí thật sự và phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân tình. Việc tiến hành tự phê bình và phê bình phải từ trên xuống, từ dưới lên, phê bình việc làm chứ không phê bình người và phải thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày”. Trong phê bình phải trung thực, thẳng thắn, chân thành, rõ ưu điểm và nhược điểm, không né tránh nhưng cũng không lợi dụng phê bình để đả kích, “hạ bệ” lẫn nhau. Cần tôn trọng sự thật, lẽ phải, không bao che hoặc thổi phồng, bóp méo khuyết điểm; đánh giá đầy đủ, đúng đắn ưu điểm, nhược điểm của từng tổ chức, cá nhân để từ đó đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp. Đồng thời với đẩy mạnh tự phê bình và phê bình cần kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, “lợi ích nhóm”, coi đó là hai mặt của một quá trình tu dưỡng, phấn đấu của người cán bộ, đảng viên tạo nền tảng vững chắc cho sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Bốn là, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tổ chức đảng và trong các cơ quan, đơn vị. Giữ trọng trách chủ trì cơ quan, đơn vị, người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, cũng như sự đoàn kết, thống nhất nội bộ. Bởi vậy, phẩm chất, năng lực, vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng, là trung tâm của sự đoàn kết, thống nhất trong tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Học tập Di chúc của Bác, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cần quán triệt và chấp hành nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các nguyên tắc, quy chế, quy định và chế độ công tác; gương mẫu trong tự phê bình và phê bình, khắc phục khuyết điểm; đem lòng chí công vô tư mà xử lý công việc, đối xử với mọi người và chính bản thân mình. Bằng nội dung, biện pháp thích hợp, người đứng đầu tổ chức triển khai các nghị quyết, chỉ đạo tiến hành tổ chức cấp mình thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII); quan tâm, tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ và khắc phục khuyết điểm còn tồn tại một cách nghiêm túc, tự giác; đồng thời, phải thể hiện rõ thái độ công tâm, ủng hộ cái đúng, bảo vệ chân lý, phê phán cái sai; chống mọi biểu hiện “dĩ hòa vi quý”, thấy đúng không bảo vệ, sai không đấu tranh, phê bình. Mặt khác, phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp ủy, tổ chức đảng và giải quyết hài hòa các mối quan hệ công tác, làm cho sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng thực sự trở thành hạt nhân đoàn kết trong hệ thống chính trị. 
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, phát hiện sớm và kiên quyết giải quyết dứt điểm mọi hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Công tác kiểm tra giúp cho các cấp ủy kịp thời phát hiện và ngăn chặn nguyên nhân, hiện tượng mất đoàn kết. Đồng thời biểu dương kịp thời và có biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, giáo dục cán bộ, đảng viên không ngừng chăm lo vun đắp cho khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm soát khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt”(11). Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, một mặt phải tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy các cấp, đề cao trách nhiệm của các cơ quan chức năng, tích cực đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành, đồng thời cần có cơ chế, quy chế cụ thể để bảo vệ và phát huy vai trò giám sát của quần chúng, nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhìn lại những chặng đường phát triển của đất nước và của tỉnh, bài học về đoàn kết luôn vẹn nguyên giá trị và song hành trong từng bước đi lên của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ vận dụng đến thực tiễn triển khai, chúng ta đã, đang và sẽ xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên để xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh.
LÊ PHAN LƯƠNG 
Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
-----------------------
(1 ) Bản “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các tác phẩm: “Đường kách mệnh”, “Ngục trung nhật ký”, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” - (19/12/1946) và “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước” - (17/7/1966) là 05 trong 30 bảo vật quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt và công nhận đợt đầu tiên năm 2012 (theo Quyết định số 1426/QĐ-TTg, ngày 01 tháng 10 năm 2012).
( 2) (1) Trước hết, nói về Đảng; (2) Đoàn viên thanh niên; (3) Nhân dân lao động; (4) Cuộc kháng chiến chống Mỹ; (5) Về phong trào cộng sản thế giới; (6) Về việc riêng.
(3) Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.8, tr.49.
(4 ) Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.8, tr.150.
(5 )Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.349.
(6) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà  Nội, 2000, t.6, tr.555-556.
(7) Văn kiên Đảng đã dẫn, t.47, tr.585.
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1996, tr. 143-144.
(9) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
(10) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.241.
(11) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.287.

Có thể bạn quan tâm