Chính trị

Tin tức

Học tập và làm theo gương Bác

Tác phẩm "Dân vận" của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Giá trị lý luận và thực tiễn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Dân vận” với bút danh XYZ, đăng trên báo Sự thật ngày 15-10-1949, đến nay tròn 70 năm. Đây là thời điểm mà Đảng ta lãnh đạo cả nước vừa kháng chiến, vừa kiến quốc đầy cam go, phức tạp. Tác phẩm “Dân vận” thực sự là một thông điệp gửi tới tất cả chúng ta, đem lại cho chúng ta cẩm nang để hành động. Cả 4 nội dung Người đưa ra đã hội đủ những giá trị bền vững mà chúng ta dày công suy nghĩ để hiểu cho đúng rồi làm theo cho tốt.
Giá trị bền vững
Vấn đề đầu tiên trong tác phẩm “Dân vận” được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cho cán bộ, đảng viên là phải thấm nhuần sâu sắc bản chất của Nhà nước ta: “Nước ta là nước dân chủ”. Người cho rằng “địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” và “trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân”. Do đó mà phải thực hiện “mọi lợi ích là vì dân, mọi quyền hành là của dân, và mọi công việc là do dân”. Của dân, tức là chính quyền từ xã đến Trung ương đều do dân bầu ra, nuôi dưỡng và kiểm soát: toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức gánh vác công việc nước nhà. Do dân là Nhân dân tự phát huy quyền làm chủ của mình trong mọi lĩnh vực, Nhà nước chỉ can thiệp khi quyền lợi của dân hay pháp luật bị vi phạm. Người căn dặn: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ xã đến Trung ương do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Vì dân là mọi quy định pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân, bảo vệ những lợi ích chính đáng và tạo điều kiện sống thuận lợi cho Nhân dân, bộ máy nhà nước không được chiếm đặc quyền đặc lợi gì, mà chỉ có một mục tiêu là phục vụ Nhân dân: “Phải chú ý giải quyết hết những vấn đề dầu khó đến đâu, những vấn đề có quan hệ tới đời sống của Nhân dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý. Muốn được dân yêu mến, muốn được lòng dân trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân lên hết thảy, phải có tinh thần chí công vô tư”.
Ý nghĩa sâu xa toát lên từ luận điểm nêu trên của Người là ở chỗ, Đảng (đoàn thể) cũng ở trong xã hội, ở trong dân, chỉ vì dân mà tồn tại, mà hoạt động, mà tranh đấu cho quyền lợi của dân. Đảng không thể ở bên ngoài xã hội, không thể đứng trên dân, không thể xa dân. Sức dân, lực lượng đoàn kết của dân là cơ sở xã hội bền chặt nhất của Đảng, quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân làm cho Đảng bền vững. Đảng cũng do dân tổ chức nên là vì vậy. Và có thuận lòng dân, hợp ý dân thì Đảng mới có uy tín trong dân, mới được dân ủng hộ. Có thuận lòng dân thì dân vận mới vào được lòng dân, thành niềm tin và hành động của dân, làm cho trách nhiệm của dân, công việc của dân trong xây dựng đất nước, kiến thiết kinh tế và văn hóa đem lại kết quả để dân thụ hưởng.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã Hùng Sơn (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên năm 1954). Ảnh tư liệu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã Hùng Sơn (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên năm 1954). Ảnh tư liệu.
Cũng trong tác phẩm “Dân vận”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải rõ ràng khái niệm: “Dân vận là gì?”. Theo Người: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”. Như vậy, hiểu theo chiều rộng, “dân vận” là vận động tất cả mọi người dân, không để sót một người nào, nhằm tập hợp, đoàn kết lực lượng toàn dân, thực hiện những công việc chung, những công việc nên làm. Còn hiểu theo chiều sâu, đó là phải hiểu rõ năng lực, tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng để có hình thức vận động cho phù hợp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quán triệt: Cách mạng tức là đổi xã hội cũ thành xã hội mới, đó là một công việc lâu dài, khó khăn gian khổ, đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hợp lực, nhất trí của toàn dân tộc, không phân biệt giai cấp, tầng lớp; không phân biệt già trẻ, gái trai, dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo... Do đó, để tập hợp mọi giai cấp, tầng lớp, mọi người dân thành một lực lượng hướng đến một mục tiêu chung là giành độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, chúng ta phải luôn đi sâu, đi sát quần chúng, đi vào từng người, khơi dậy và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức tự giác của từng người dân nhằm huy động tối đa sức lực, trí lực, tài lực của Nhân dân vào sự nghiệp cách mạng.
Trong tác phẩm “Dân vận”, khi đặt câu hỏi “Ai phụ trách dân vận?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách dân vận”. Bác nói đến cán bộ chính quyền trước, vì Đảng ta là Đảng cầm quyền, chính quyền có chức năng ra quyết định về chính sách, về nhân lực và cán bộ chính quyền là người triển khai cho dân chúng thực hiện chính sách ấy. Chính quyền còn có trách nhiệm tạo điều kiện và phối hợp với các đoàn thể chính trị-xã hội để làm tốt công tác dân vận. Cùng với cán bộ chính quyền, cán bộ Đảng, cán bộ các đoàn thể chính trị-xã hội đều phải phụ trách dân vận. Cán bộ thì phải sâu sát, gắn bó với Nhân dân, phải gương mẫu trước Nhân dân, giúp Nhân dân phát triển sản xuất.
Như thế, Người đã gắn liền con người với công việc và tổ chức, giáo dục tuyên truyền với hành động, vừa giúp đỡ, hỗ trợ cho dân, vừa khích lệ, thúc đẩy dân cùng làm, cùng thực hiện. Dân không chỉ là đối tượng tác động của dân vận mà dân còn là chủ thể hoạt động dân vận. Người không sử dụng khái niệm hệ thống chính trị nhưng trên thực tế đã đề cập tới tất cả hệ thống chính trị đều tham gia vào công tác dân vận với sự phối hợp, phân công, hợp tác, chia sẻ trách nhiệm để cùng với dân thực hiện công tác quan trọng này. Thi đua và sự gương mẫu, gần gũi dân, tổ chức cho dân thực hiện các nhiệm vụ, các công việc thực tế có ích cho dân, có lợi cho dân là những gợi ý quan trọng của Người về dân vận. Tư tưởng nêu trên của Người cho thấy, người phụ trách dân vận phải tránh xa tính hành chính, quan liêu, mệnh lệnh, mà phải hành động thiết thực cụ thể để phục vụ dân, đồng thời nâng cao nhận thức cho dân chúng.
Về phương pháp làm dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ phụ trách dân vận là phải: “Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Đây vừa là tiêu chuẩn của cán bộ phụ trách dân vận, vừa là phương pháp làm dân vận để dân vận có hiệu quả. Đội ngũ cán bộ phụ trách dân vận bao gồm: cán bộ của Đảng, chính quyền, đoàn thể và ngày nay là tất cả cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Để làm tốt công tác dân vận thì trước hết cán bộ, đảng viên vừa phải có kiến thức-”óc nghĩ”; vừa sâu sát cơ sở để nắm được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân, phải nói đi đôi với làm, gương mẫu cả trong lời nói và hành động-”chân đi, miệng nói, tay làm”. Bác căn dặn cán bộ phụ trách dân vận “không chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”, nghĩa là khắc phục bệnh quan liêu, giấy tờ, xa dân, không tôn trọng dân, không quan tâm giải quyết những bức xúc, đề xuất, kiến nghị chính đáng của Nhân dân. Đây cũng chính là đòi hỏi tiên quyết trong yêu cầu nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong tỉnh hiện nay.
Quan tâm sâu sắc đến công tác dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “…khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”. Người nhấn mạnh chỉ có làm tốt công tác dân vận thì mới huy động được sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân. Cách mạng muốn thành công, đạt được nhiều thành tựu lớn lao thì phải xây dựng nền tảng từ nhân dân: “Gốc có vững, cây mới bền/Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Theo Bác: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”. Chúng ta đều biết là tin ở dân, chăm lo cho dân, lấy dân làm gốc là một bài học lớn được rút ra từ chiều sâu lịch sử. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng luôn cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng Cộng sản muốn lãnh đạo cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân; cách mạng muốn thắng lợi phải được đông đảo nhân dân ủng hộ. Lênin nhiều lần khẳng định: Nguồn gốc chủ yếu sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ mật thiết với Nhân dân; đồng thời nhấn mạnh, đối với một đảng cầm quyền, “một trong những nguy cơ lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”.
Chính nhờ luôn xác định đúng đắn vị trí, vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân, của công tác dân vận mà Đảng ta đã tập hợp đông đảo quần chúng, phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, đánh thắng 2 đế quốc Pháp và Mỹ, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước và đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước... Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định bài học kinh nghiệm to lớn rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam, đó là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức dân vận
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, trong thời gian tới, cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức tổ chức vận động, tập hợp quần chúng; đồng thời, cụ thể hóa thành các giải pháp thật sự dựa vào dân để xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể:
Một là, tăng cường công tác dân vận của Đảng và của chính quyền; phát huy vai trò giám sát của MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã hội, của nhân dân, báo chí và công luận trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, gắn với thực hiện hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Hai là, tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và đôn đốc việc thực hiện các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là nội dung kiểm tra “về ý thức trách nhiệm phục vụ Nhân dân bằng những việc làm thiết thực, cụ thể; việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo chính đáng của Nhân dân; chống biểu hiện về sự vô cảm, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho Nhân dân”. Kiên quyết xử lý theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ, đảng viên có sai phạm, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nói và làm trái quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng.
 LÊ PHAN LƯƠNG
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Có thể bạn quan tâm