Thời sự - Bình luận

Định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
50 năm qua, những định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới kiểm chứng và khẳng định...
 
Bác Hồ viết bản Di chúc - Ảnh tư liệu của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước
Đại tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam mới có bài viết với tiêu đề: "Giá trị định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", trong đó cho biết, Bản Di chúc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã trở thành một di sản vô cùng quí báu trong kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam, chứa đựng những giá trị định hướng thiên tài, giá trị nhân văn sâu sắc.
50 năm qua, những định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Di chúc) đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới kiểm chứng và khẳng định.
Cụ thể, theo Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Di chúc dự báo chính xác về thời gian, không gian và kết quả thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Sự chính xác của dự báo này kết tinh ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Bản Di chúc đầu tiên Người viết từ ngày 10/5 đến ngày 15/5/1965 đã khẳng định niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, dù thời điểm ấy, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang ở giai đoạn vô cùng gay go, quyết liệt nhưng Người đã lạc quan dự báo: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Trong bản Di chúc của Người được Bộ Chính trị Đảng ta công bố năm 1969, Người viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn” và “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Tất cả những điều Người dự báo đều đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm chính xác. Đó là, sau 6 năm bản Di chúc của Người được công bố (1969), mùa Xuân năm 1975, nhân dân ta đã hoàn thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã thực hiện thành công lời căn dặn và mong ước của Người.
Dự báo mô hình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta: Mô hình xã hội mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dự báo, thể hiện khát vọng cháy bỏng của Người là: “Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đây là sự hội tụ, kết tinh tư tưởng của Người về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với nhãn quan chính trị sắc sảo và tầm nhìn xa, trông rộng, Di chúc như một thiết kế lý luận về đổi mới và phát triển, một kế hoạch, chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội như đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; cải cách chế độ giáo dục, đào tạo; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; giải quyết mối quan hệ phát triển kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; động lực lợi ích và chăm lo chu đáo cuộc sống của nhân dân; đề cao tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc nước, là chủ thể của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Di chúc còn phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển, đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ... “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Vì thế, Người yêu cầu: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân”.
Di chúc cũng thể hiện giá trị định hướng thiên tài trong là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo đó, lời căn dặn đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc là: “Trước hết nói về Đảng” và trong bản bổ sung năm 1968 Người lại viết: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn Đảng”. Những lời dặn lại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên được những điều chính yếu nhất của nhiệm vụ xây dựng Đảng. Xây dựng củng cố Đảng là điều Người luôn trăn trở, tập trung biết bao công sức, suốt mấy chục năm ròng. Người cho đó là điều quan trọng hàng đầu để cách mạng thắng lợi, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhất thiết phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; Đảng phải thực sự gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Di chúc của Người xác định rõ những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là: Giữ gìn mối đoàn kết thống nhất trong Đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng; nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh chống tham ô, lãng phí. Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. 
Bằng dự cảm thiên tài của mình, Người đã tiên liệu cho Đảng ta những thuận lợi, khó khăn và cả những sai lầm, khuyết điểm có thể mắc phải khi cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Những điều Người trù liệu cho chúng ta vừa thiết thực, cụ thể vừa mang tính chiến lược trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hôm nay.
Đặc biệt, từ khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, các nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta cụ thể hóa và được tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao, quyết liệt, mạnh mẽ; nhờ đó, Đảng ta đã giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất cao trong Đảng; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính tri, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Di chúc định hướng vai trò của Đảng ta trong Di chúc là việc góp phần xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ quan điểm của mình trước sự bất hoà của phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ, Người viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em”. Đây là lời nhắn gửi của Người đến những người cộng sản chân chính về quan điểm và trách nhiệm của mình vì sự đoàn kết quốc tế trong sáng, vì nền hòa bình thế giới và sự tiến bộ của loài người.
Trước lúc đi xa, Người căn dặn Đảng ta: “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
Người bày tỏ niềm tin: “Các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới, nên sự vững mạnh của Đảng là: phải khẳng định mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Những di huấn của Người về phong trào cộng sản thế giới và sự cần thiết phải mở rộng quan hệ đối ngoại có ý nghĩa định hướng đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta hiện nay.
Định hướng giải phóng con người, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ vì tương lai, tiền đồ tươi đẹp của đất nước.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là quá trình phấn đấu bền bỉ, dài lâu, tiếp nối của nhiều thế hệ cách mạng để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu và các thế lực thù địch chống phá. Người chỉ rõ Đảng Cộng sản cầm quyền phải có chiến lược chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, để xây dựng thành công chế độ xã hội mới, tiến bộ, văn minh.
Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Khẳng định: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Vì thế, Người mong muốn Đảng, Nhà nước phải có chính sách chăm lo cho thương binh, liệt sĩ, cha mẹ, vợ con của họ, cho phụ nữ, thanh niên, nông dân, đồng bào miền xuôi cũng như miền núi không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Phát triển giáo dục, công tác y tế và vệ sinh; có chính sách khoan dung nhất định đối với những nạn nhân của chế độ cũ. Người định hướng về quản lý xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội sau chiến tranh là: “...Mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”.
Thực hiện Di chúc của Người, Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa công bằng và tiến bộ xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, chăm lo ngày càng tốt hơn cuộc sống của người dân.
"Lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định những giá trị trường tồn của bản Di chúc mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Thời gian càng lùi xa, thực tiễn càng vận động, biến đổi, càng chứng minh giá trị và sự định hướng thiên tài trong Di chúc của Người", Đại tướng Lương Cường khẳng định.  
T. Sự (Pháp luật Việt Nam)

Có thể bạn quan tâm