Biển đảo Việt Nam

Một thời gắn bó với Trường Sa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Cách đây 40 năm, những người lính hải quân trẻ tuổi ở Trung đoàn 83 và Trung đoàn 131 Công binh, đã gác lại tuổi thanh xuân của mình đi Trường Sa xây đảo. Ở giữa đại dương bao la ấy, họ trằn mình trong mưa rào, nắng lửa và đối mặt với bao gian khổ, thiếu thốn, khắc nghiệt của bão tố.

Đảo Trường Sa lớn ngày nay. Ảnh: Mai Thắng
Đảo Trường Sa lớn ngày nay. Ảnh: Mai Thắng

Để có thông tin chính xác về những người đầu tiên đi Trường Sa xây đảo tháng 4-1976, tôi tìm gặp cựu binh Nguyễn Viết Chức-nguyên thuyền trưởng tàu HQ07. “Sau giải phóng Trường Sa năm 1975, nhiệm vụ xây dựng đảo được đặt lên hàng đầu trong chiến lược bảo vệ chủ quyền biển đảo của Bộ đội Hải quân. Điều đó có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển, vừa khẳng định với thế giới rằng quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Do vậy, đưa lực lượng ra khẩn cấp triển khai xây đảo được coi là nhiệm vụ cấp thiết lúc đó”-ông Chức cho biết.

Chuyện xây đảo Trường Sa được cựu binh Chức kể lại trong niềm tự hào: “Mặc dù đi Trường Sa ngày ấy đồng nghĩa với gian nguy, song lúc đó lính trẻ không chùn bước. Biết là phải đối mặt với nhiều thử thách, có thể phải hi sinh tính mạng, nhưng anh em luôn xác định tốt nhiệm vụ và sẵn sàng hy sinh”.

Sau 8 tháng kể từ ngày đất nước thống nhất, trước yêu cầu khách quan về nhà ở và hệ thống phòng thủ bảo vệ đảo, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân tiến hành khảo sát xây dựng các nhà kiên cố trên quần đảo Trường Sa. Việc xây dựng phải bảo đảm 2 yếu tố cơ bản: phải là nơi phòng thủ kiên cố có tầm quan sát rộng, tiện cho cơ động và tránh nắng nóng; vừa tránh được ẩm thấp nước biển mặn, đón được hướng gió, bảo đảm mọi sinh hoạt công tác, huấn luyện, vui chơi của bộ đội. Nhận nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân xác định “Dù khó khăn đến mấy, dù phải hy sinh đến tính mạng cũng phải xây dựng bằng được nhà kiên cố lâu bền trên các cụm đảo Trường Sa, đó là mệnh lệnh từ trái tim người lính đối với Tổ quốc nơi tuyến đầu”. Kế hoạch từ khâu vận chuyển đá, thép, vật liệu từ đất liền ra đảo được bàn thảo khẩn trương và khoa học. Hàng ngàn mét khối đá, xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng được chuyển xuống tàu, vượt sóng gió ra Trường Sa.

 

Chuyển cát từ xuồng vào xây đảo, (ảnh tác giả chụp lại từ ảnh tư liệu).
Chuyển cát từ xuồng vào xây đảo (ảnh tác giả chụp lại từ ảnh tư liệu).

Chuyến tàu đầu tiên mang tên Đại Khánh do Đại úy Lê Nhật Cát-nguyên là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 83 chỉ huy 70 cán bộ chiến sĩ trẻ hành trình ra Trường Sa lớn vào cuối tháng 4-1976. Tàu Đại Khánh có trọng tải 75 tấn, sau gần 4 ngày lênh đênh trên biển đã đến đảo Trường Sa Lớn. Gần 4 ngày vật lộn với sóng gió, 80% cán bộ chiến sĩ bị say sóng, nhiều chiến sĩ trẻ bỏ bữa. Hầu hết các chiến sĩ chưa biết Trường Sa là gì, chỉ hình dung trong đầu đó là một hòn đảo xa xôi và thiêng liêng.

Trường Sa lớn ngày đầu giải phóng toàn đất đá và thuốc súng. Ban ngày nhiệt độ nóng đến 38 độ, cộng với gió Tây Nam thổi mạnh, hơi nước mặn từ biển bốc lên, càng làm cho khí hậu thêm khắc nghiệt. Công việc đầu tiên của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân là thiết kế nơi ăn ở, nhanh chóng bắt tay vào xây đảo. Một bài toán vô cùng khó khăn đặt ra là làm gì để có nước ngọt, trong khi lượng nước ngọt do tàu Đại Khánh đựng trong can nhựa vơi dần, trời thì không mưa, nước từ giếng nhiễm mặn không sao ăn được.

Thời điểm đó, ngoài Trường Sa Lớn và Song Tử Tây không có đảo nào có nước ngọt. Hai đảo này có bể chứa nước, mỗi bể chừng 6 m3, nhưng cũng không dùng được vì nhiễm thuốc súng, phân và lông chim. Trước tình thế ấy, để sinh tồn và xây đảo, chỉ bằng một cách là tiết kiệm tối đa cho đến khi có nguồn nước viện trợ từ đất liền. Kế hoạch tiết kiệm là mỗi người một lít một ngày cho cả đánh răng rửa mặt. “Nói là một lít, nhưng chúng tôi múc đầy cái cà mèn của Liên Xô cũng được hơn một lít. Chừng ấy nước, lúc xây đảo, tôi chỉ tu hai hơi là hết, vậy mà phải uống dè”-cựu binh Chức chia sẻ.

Ông Chức nhớ lại: “Việc xây những ngôi nhà đầu tiên trên đảo vô cùng khó khăn. Trên trời nắng cháy da, mặt đảo nóng hừng hực do cát bốc lên, anh em phải dùng bạt che tạm làm nhà ở. Mùa gió chướng, cả đảo mù mịt cát bụi càng làm cho khí hậu khắc nghiệt, càng nhớ đất liền hơn. Khó khăn thì không thể nói hết được, nhưng điều quan trọng là cán bộ chiến sĩ luôn vững vàng, yên tâm tư tưởng và quyết tâm xây đảo. Nhiều chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ đã xung phong ở lại tiếp tục xây đảo. Đối với chúng tôi, khó khăn không bao giờ sờn lòng, gian nan không bao giờ chùn bước”.

Mai Thắng

Có thể bạn quan tâm