Đây là 3 vị tướng trưởng thành từ Tây Nguyên và những chiến công của họ gắn liền với những bước phát triển của phong trào cách mạng nơi đây.
Những chiến công vang dội
Trò chuyện với chúng tôi, Trung tướng Lê Quang Minh-Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam-cho biết: Nét đặc biệt của 3 vị tướng này là họ có trên 10 năm sống, chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên, dấu chân đã in đậm trên mỗi tên đất, tên làng. Tên tuổi của những vị tướng này đã gắn với những chiến dịch như: Plei Me, Sa Thầy, Đak Siêng, Đak Tô-Tân Cảnh, Buôn Ma Thuột... là những dấu son chói lọi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, luôn in đậm trong lòng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên và là nỗi khiếp sợ của kẻ thù.
Trao danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho đại diện các gia đình: Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Thượng tướng Vũ Lăng. Ảnh: V.H |
Nhắc đến Thượng tướng Hoàng Minh Thảo-Phó Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Tư lệnh Chiến trường Tây Nguyên, Tư lệnh Chiến dịch Tây nguyên, nhiều người sẽ nhớ đến Chiến dịch Đak Tô 1 và Đak Tô-Tân Cảnh. Đại tá Nguyễn Bá Lực-Tư lệnh Quân đoàn 3-cho hay: Trong 2 chiến dịch này, lần đầu tiên quân ta xây dựng các khu quyết chiến chuẩn bị sẵn. Khi địch tấn công các khu vực khác, ta quyết tâm bám trụ, giữ chốt, tiêu hao sinh lực địch, chờ địch vào vị trí ta chuẩn bị sẵn. Với cách đánh đưa pháo lên cao, vào gần, bắn thẳng, tiêu diệt địch ở khu quyết chiến, ta đã làm tê liệt sân bay, gây thiệt hại nặng sở chỉ huy dã chiến của Sư đoàn bộ binh 4 Mỹ, xóa sổ trại biệt kích ngụy…
Nghệ thuật quân sự mà Thượng tướng Hoàng Minh Thảo sử dụng trên chiến trường Tây Nguyên là vận động bao vây tiến công liên tục, đánh bại chiến thuật đóng chốt trên điểm cao và thủ đoạn di tản, co cụm của quân ngụy với phương châm “Lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, mở ra khả năng tổ chức những chiến dịch lớn hơn, có thể đánh và tiêu diệt từng trung đoàn, đánh thiệt hại sư đoàn địch trên chiến trường Tây Nguyên.
10 năm gắn bó với chiến trường Tây Nguyên, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau như: Chủ nhiệm Chính trị, Phó Chính ủy, Chính ủy-Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên (B3)-Quân đoàn 3. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên địa bàn Tây Nguyên bước vào giai đoạn cam go, ác liệt, một trong những vấn đề nổi cộm gây băn khoăn trong cán bộ, chiến sĩ các đơn vị ở Mặt trận Tây Nguyên lúc này là: “Ta có đánh thắng được quân Mỹ không?” và “Đánh bằng cách nào?”. Để giải quyết câu hỏi đó, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp-Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận đã tham mưu, đề xuất với Đảng ủy-Bộ Tư lệnh mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trên toàn Mặt trận, trong đó tập trung quán triệt nghị quyết, nhiệm vụ, cách đánh vây điểm, diệt viện. Từ đó, “Tìm Mỹ mà diệt”, “Tìm ngụy mà đánh” trở thành phong trào sôi nổi trong các lực lượng vũ trang Tây Nguyên. Trong Chiến dịch Plei Me, qua hơn 1 tháng chiến đấu chủ động, liên tục tiến công, ta đã diệt gọn 1 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, tiêu diệt 1 chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân ngụy, bắn rơi và phá hỏng 59 máy bay lên thẳng, phá hủy 89 xe quân sự. Điều này khẳng định, quân và dân Tây Nguyên đủ khả năng để đánh thắng Mỹ.
Nhiều người nhắc đến Thượng tướng Vũ Lăng-Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Phó Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên là một bậc thầy về nghi binh, lừa địch. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước-nguyên Tư lệnh Quân đoàn 3-từng chia sẻ với chúng tôi: “Sau nhiều lần nghiên cứu kỹ lưỡng thực địa và các hình thái bố trí lực lượng đối phương tại Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, đứng đầu là Tư lệnh Vũ Lăng đã thống nhất cách đánh: Nghi binh thu hút địch về Kon Tum và Pleiku, tạo sơ hở ở Buôn Ma Thuột để đột phá tiêu diệt địch và làm chủ thị xã trong thời gian ngắn nhất. Thượng tướng Vũ Lăng và Bộ Tư lệnh gần như không ngủ”. Không chỉ đề ra kế sách nghi binh mà khi chiến dịch diễn ra, Tư lệnh Vũ Lăng đã trực tiếp chỉ huy Sư đoàn 10 đánh chiếm Đức Lập trong thời gian ngắn, hoàn thành tốt phương án tác chiến và ý đồ tiến công của Bộ Tư lệnh. Sau đó, ông tiếp tục trực tiếp chỉ huy Sư đoàn 10 đánh chiếm Lữ dù 3 ngụy tại đèo Phượng Hoàng và truy kích địch tháo chạy trên đường 7.
Nặng lòng với Tây Nguyên
Chiều cuối năm, tiết trời se lạnh, chúng tôi may mắn được gặp người thân của các vị tướng vang danh một thời khi họ đến TP. Pleiku. Ông Vũ Dũng-con trai của Thượng tướng Vũ Lăng bắt đầu câu chuyện với chúng tôi bằng chất giọng trầm: “Cả cuộc đời cha tôi đều dành cho binh nghiệp. Ông rất nghiêm khắc khi dạy dỗ chúng tôi. Những năm ở chiến trường Tây Nguyên, ông ít về thăm nhà, nếu có về thì cũng vài ngày rồi đi. Đầu năm 1974, cha tôi về thăm nhà và bảo với chúng tôi là sẽ đi công tác xa, khi nào Tây Nguyên giải phóng, đất nước thống nhất sẽ quay về. Một buổi sáng, tôi đang đi học thì cha tôi đến trường xin phép cho tôi nghỉ 3 ngày. Ông bảo: “Con hãy lên xe đi cùng ba vào khu 4 rồi sẽ có xe đưa con ra Hà Nội”. Ngày ấy, tôi mới học lớp 10.
Tôi vẫn nhớ như in những lời cha nói: “Các con đang sống ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng bào và bạn bè cùng trang lứa với con ở miền Nam nói chung, Tây Nguyên nói riêng đang sống trong cảnh chiến tranh, chịu bao cực khổ. Dù thế nhưng Nhân dân các dân tộc Tây Nguyên vẫn một lòng theo cách mạng, đùm bọc, che chở cho bộ đội, thậm chí còn nhường cả những củ mì, bát gạo cho bộ đội đủ sức để đánh giặc còn mình thì nhịn đói”.
Câu chuyện giữa chúng tôi và ông Dũng nhiều lần bị gián đoạn vì ông không cầm được nước mắt khi nhớ về người cha của mình. “Mãi đến sau này, chúng tôi mới hiểu tại sao cha tôi lại có nhiều tình cảm đối với Tây Nguyên như thế. Mẹ tôi cũng thường bảo: “Cha các con đã chiến đấu và trưởng thành từ mảnh đất Tây Nguyên. Đồng bào các dân tộc đã chở che bao bọc cho ông và những đồng đội. Vì vậy, nếu có điều kiện, con hãy đến nơi đó nhiều hơn”-ông Dũng kể.
Gia đình Thượng tướng Vũ Lăng tham quan Bảo tàng Quân đoàn 3. Ảnh: V.H |
Khi có mặt tại Bảo tàng Quân đoàn 3, nhìn những tư liệu, hiện vật, trong đó có hình ảnh cha mình đang ngồi cùng Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên bàn bạc cách đánh địch, Thiếu tướng Hoàng Hoa Châu-con trai của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo-không giấu được sự xúc động. Ông tâm sự: “Ba tôi luôn nhắc chúng tôi phải biết rõ lịch sử. Để đất nước hòa bình và thống nhất như hôm nay, biết bao thế hệ cha anh đã ngã xuống. Với Tây Nguyên, gắn bó với chiến trường này hơn 10 năm, ông được đồng bào các dân tộc che chở, nuôi dưỡng và đùm bọc. Chính vì vậy, ông luôn nặng lòng với mảnh đất này. Sau này khi đã nghỉ hưu, ba tôi kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện, trong đó có câu chuyện về Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 12-4-1975, khi được giao chuẩn bị tham gia Chiến dịch Sài Gòn-Gia Định, lúc này Tây Nguyên đã giải phóng, nhiều ý kiến của quân-dân Tây Nguyên đều cho rằng đây là chiến dịch lớn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vì vậy cần lấy tên Bác Hồ để đặt tên cho chiến dịch. Từ các ý kiến đó, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã báo cáo với Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và ngày 14-4-1975, Bức điện số 37/TK của đồng chí Lê Duẩn gửi đến mặt trận Sài Gòn “đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Ba tôi luôn tâm đắc với ý kiến này bởi nó thể hiện được tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc của quân dân Tây Nguyên đối với Bác Hồ”.
Thiếu tướng Hoàng Hoa Châu chia sẻ: “Tôi rất tự hào vì mỗi lần đến Gia Lai đều thấy những đổi thay, người dân nơi đây vẫn sâu đậm nghĩa tình, thủy chung, mến khách. Có lẽ ba tôi và nhiều đồng đội của ông luôn tự hào về sự đổi thay ấy”.